Việc
các nhà y học sinh sản tuyên bố rằng họ đã “chế tạo” thành công tế bào
sinh sản người từ kỹ thuật nhiễm sắc thể đơn đã gây chấn động và nhiều
tranh cãi trong dư luận. Trong khi những cặp đôi đồng tính (cả nam lẫn
nữ) và những người mất khả năng sinh sản vui mừng vì có thêm tia hy
vọng thì phần lớn nhiều người khác lại lo sợ trước vô vàn nguy cơ tiềm
ẩn từ phát kiến này. Khi mà cả thế giới đã chấp nhận việc thụ tinh nhân
tạo thì không có lý do gì để từ chối kỹ thuật thụ tinh bằng nhiễm sắc
thể đơn bởi xét về tổng thể, nó không khác gì chu trình thụ tinh trong
ống nghiệm.
Thụ tinh bằng kỹ thuật nhiễm sắc thể đơn các nhà y học sinh sản tuyên bố rằng họ đã “chế tạo” thành công tế bào
sinh sản người từ kỹ thuật nhiễm sắc thể đơn đã gây chấn động và nhiều
tranh cãi trong dư luận. Trong khi những cặp đôi đồng tính (cả nam lẫn
nữ) và những người mất khả năng sinh sản vui mừng vì có thêm tia hy
vọng thì phần lớn nhiều người khác lại lo sợ trước vô vàn nguy cơ tiềm
ẩn từ phát kiến này. Khi mà cả thế giới đã chấp nhận việc thụ tinh nhân
tạo thì không có lý do gì để từ chối kỹ thuật thụ tinh bằng nhiễm sắc
thể đơn bởi xét về tổng thể, nó không khác gì chu trình thụ tinh trong
ống nghiệm.
Giáo
sư y học Peter Nagy người Brasil từ lâu đã phủ nhận một trong những lý
thuyết được coi là cơ bản nhất trong chuyên ngành của mình, đó là lý
thuyết cho rằng con người chỉ có thể được sinh ra khi một tế bào sinh
sản đực hòa hợp với một tế bào sinh sản cái. Theo ông, thiên nhiên linh
hoạt hơn nhiều so với những gì người ta đọc được trong sách chuyên
môn. Sự thật là GS. Nagy đã có những bằng chứng đầu tiên để phủ nhận lý
thuyết trên. Cùng với GS. Jan Tesarik - một đồng nghiệp người Séc, GS.
Nagy đã thành công trong việc dùng tinh trùng của người chồng để thụ
tinh với nhân (thông tin di truyền) lấy từ một tế bào bình thường ở cơ
thể người vợ, tạo ra tế bào phôi thai. Theo cách này, ông đã giúp một
cặp vợ chồng có con trong khi tế bào trứng của người vợ không có khả
năng thụ tinh. Điều đáng nói là đứa con vẫn mang thông tin di truyền
của cả bố và mẹ.
Ngày nay một đứa trẻ có thể ra đời mà không cần tế bào trứng hay tinh trùng nhưng vẫn mang gen di truyền từ bố mẹ.
một phát kiến tương tự, một nhóm các nhà khoa học Australia thậm chí
còn có thể thay thế tế bào tinh trùng bằng tế bào bình thường của cơ
thể để cho thụ tinh với tế bào trứng. Kỹ thuật sinh sản mang tính chất
đột phá trong lịch sử phát triển của loài người này được gọi là kỹ
thuật nhiễm sắc thể đơn - đang được các nhà y học sinh sản hàng đầu
thế giới tiến hành giai đoạn thử nghiệm trên chuột.
Hiện
có 3 nhóm các nhà khoa học đi tiên phong là nhóm GS. Nagy và Tesarik;
nhóm của GS. Gianpiero Palermo ở New York (Mỹ) và nhóm các nhà khoa
học Australia của GS. Orly Lacham- Kaplan. Trong Hội nghị của Hiệp hội
Khoa học sinh sản Mỹ tổ chức mới đây ở Seattle, Mỹ, hai nhóm của GS.
Nagy và Palermo đã trình bày trước hàng ngàn các nhà khoa học công
trình nghiên cứu của họ và cho biết họ đã nhiều lần thành công khi thử
nghiệm trên cơ thể động vật. Kỹ thuật này cũng đã bắt đầu triển khai
thử nghiệm trên cơ thể người.
Nếu
hướng đi mới này thành công đối với con người thì phụ nữ không cần tế
bào trứng, người đàn ông không cần tế bào tinh trùng vẫn có thể có
con mang di truyền của chính mình. Các nhà khoa học hy vọng rằng, kỹ
thuật trên có thể giúp các cặp vô sinh hoặc các cặp đôi đồng tính có
con “hoàn toàn thật” của chính hai người. Hiện nay, các cặp đối tượng
này chỉ có thể có con khi được nhận trứng hoặc tinh trùng từ người thứ
ba để thụ tinh trong ống nghiệm rồi tự mang thai hoặc nhờ một phụ nữ
khác mang thai hộ.
Như
vậy, một trong hai người sẽ không truyền được thông tin di truyền của
mình cho con cái. Theo GS. Palermo, mong muốn truyền lại thông tin di
truyền cho con cái là mong muốn của tất cả mọi người và giờ thì không
có lý do gì để mong muốn đó không thành hiện thực. Hiện trên các
trang web và trong các tổ chức của giới đồng tính, người ta đang tranh
luận sôi nổi về kỹ thuật mới này. Họ hy vọng rằng, kỹ thuật thụ tinh
bằng nhiễm sắc thể đơn có thể mang đến cho họ những đứa con giống cả
hai người mà không phụ thuộc vào giới tính của của người bạn tình mà
họ đang chung sống.
Nguy cơ tiềm ẩn
Tuy
nhiên, hình thức sinh sản mới này chứa đựng những nguy cơ tiềm ẩn lớn,
nhất là khi được thực hiện đối với những cặp đồng tính nam. Ngay các
nhà khoa học nghiên cứu trong lĩnh vực này cũng phải thừa nhận là kỹ
thuật có rất nhiều nguy cơ. GS. Nagy cho biết: Khi cặp nhiễm sắc thể bị
phân đôi hoặc sau này khi hòa trộn với nửa bên kia, có thể nảy sinh
những sai lệch về di truyền. Còn GS. Palermo thừa nhận: Chúng tôi ý
thức được rằng trong kỹ thuật này có thể nảy sinh những sai lệch nghiêm
trọng về di truyền. Đặc biệt là khi phân đôi thông tin di truyền được
đưa vào một cách nhân tạo thì mọi khả năng đều có thể xảy ra.
Bộ nhiễm sắc thể.
ta cũng có thể thấy rõ mức độ mạo hiểm của kỹ thuật mới này qua tỷ lệ
thành công của những thí nghiệm tạo ra phôi thai động vật. Theo GS.
Palermo, tỷ lệ thành công hiện nay mới chỉ là 16%. Nhưng đây không
phải là lý do duy nhất khiến giới khoa học cảm thấy lo lắng trước phát
kiến mới mẻ này. Một số nhà khoa học đã lên tiếng chỉ trích và yêu
cầu các nhóm nghiên cứu trên phải dừng ngay công việc đang làm.
GS.
Wolfgang Wuerfel - Giám đốc Bệnh viện Murnich Đức cho rằng, các đồng
nghiệp nói trên chỉ muốn đưa tên họ vào sử sách nên đã tiến hành những
thí nghiệm trên cơ thể người trong khi chưa nắm vững được quá trình
sinh học tế bào của kỹ thuật mới. Họ có thể tạo ra một thế hệ những
con người có một bộ gen không bình thường. Đồng thời, theo những người
chỉ trích, kỹ thuật mang tính “đoạt quyền tạo hóa” này còn có thể tạo
ra những đứa con mất cân bằng về tâm sinh lý. Những đứa con như vậy
sẽ nghĩ gì khi phát hiện mình chẳng có cha bởi “cha và mẹ” đều là phụ
nữ, hoặc ngược lại, chẳng có mẹ vì “cha và mẹ” đều là đàn ông?
Tuy
nhiên, những người như GS. Feichtinger (Áo) thì lại coi phương pháp
thụ tinh, sinh sản với một nhiễm sắc thể đơn là một hy vọng, một biện
pháp khả thi cho những người bị vô sinh nhưng lại muốn có con cái mang
toàn bộ thông tin di truyền của mình. Kỹ thuật này, theo GS.
Feichtinger, sẽ đẩy lùi phương pháp nhân bản vô tính vốn bị tranh cãi
bởi nó có những ưu thế quyết định: tránh được vấn đề y đức vì không
cần sử dụng tế bào mầm từ phôi người để tạo ra các tế bào khác; trong
khi với phương pháp nhân bản, chỉ một con người được sao chép về
phương diện di truyền thì bằng phương pháp thụ tinh với nhiễm sắc thể
đơn, nguyên liệu di truyền của hai người sẽ được pha trộn với nhau và
một phôi thai sẽ được hình thành như trong quá trình sinh sản tự nhiên.
Theo
GS. Feichtinger, khi mà cả thế giới đã chấp nhận việc thụ tinh nhân
tạo thì không có lý do gì để từ chối kỹ thuật thụ tinh bằng nhiễm sắc
thể đơn bởi xét về tổng thể, nó không khác gì chu trình thụ tinh trong
ống nghiệm, chỉ khác là có thêm một chút can thiệp từ bên ngoài để
đưa thông tin di truyền của đối tác vào quá trình thụ tinh mà thôi